Làm thế nào để giữ cho bảng định tuyến cập nhật và chính xác?

Thảo luận trong 'Mua bán, quảng cáo khác' bắt đầu bởi anhtu98, 19/12/20.

  1. anhtu98

    anhtu98 Member

    Bảng định tuyến trong tất cả các router trong AS phải cập nhật và chính xác để các gói dữ liệu có thể được chuyển đi đến địa chỉ đích phù hợp. Ví dụ với giao thức RIP, toàn bộ bảng định tuyến được gửi mỗi 30 giây. Trong khi đó OSPF gửi các thông tin mang tính cập nhật và chỉ gửi khi có thay đổi về đồ hình mạng xảy ra. Để đảm bảo rằng các bảng định tuyến là được đồng bộ, OSPF gửi một bản tóm tắt của toàn bộ bảng định tuyến mỗi 30 phút sau khi cập nhật cuối cùng được gửi.

    [​IMG]

    Mức độ chính xác của bảng sẽ bị ảnh hưởng bởi yếu tố nó phản ứng như thế nào với những thay đổi trong mạng. Các thay đổi này bao gồm:

    - Học một mạng mới.
    - Học một đường đi mới đến một mạng hiện có.
    - Học về sự không tồn tại của một mạng.
    - Học về các đường đi dự phòng đến một mạng.

    Mỗi thay đổi này được ghi nhận như thế nào phụ thuộc vào giao thức định tuyến. Cần chú ý rằng, việc xóa nội dung của bảng định tuyến và áp đặt router học lại thông tin là một cách rất hiệu quả trong quá trình làm lab routing. Dùng lệnh sau để xóa nội dung của bảng định tuyến:

    Router# clear ip route *

    Để xóa một tuyến đường cụ thể:

    Router# clear ip route { network [ mask] | *}

    Quan sát các trạng thái cập nhật của bảng định tuyến bằng lệnh

    Router#debug ip routing

    Lệnh debug này sẽ hiện thị bảng định tuyến được cập nhật như thế nào.

    Các phương thức để cập nhật bảng định tuyến:
    Sử dụng một giao thức định tuyến là cách dễ dàng nhất để tạo và duy trì một bảng định tuyến. Tuy nhiên đây không phải là cách duy nhất hoặc cách hiệu quả nhất để thông báo cho router biết về những mạng hiện có trong một AS. Nếu một router có rất ít tài nguyên, một cách hiệu quả là định nghĩa một đường đi đến một router có đủ thông tin về network. Do đó ngoài cách dùng các giao thức định tuyến, còn có những cách khác để cập nhật.

    Dùng định tuyến tĩnh (Static Routes)

    Cấu hình bảng định tuyến tĩnh có nghĩa là thêm vào các tuyến đường tĩnh vào trong bảng định tuyến. Thuận lợi của cách dùng định tuyến tĩnh là giúp tiết kiệm tài nguyên mạng. Nhược điểm của cách dùng này là người quản trị phải chịu trách nhiệm cập nhật cho từng dòng định tuyến tại mọi router nếu có một thay đổi trong mạng. Theo định nghĩa, các tuyến đường tĩnh không thể tự điều chỉnh động mỗi khi có thay đổi xảy ra. Do đó các mạng sẽ không hội tụ cho đến khi nào các router được cấu hình. Có một vài tình huống cần phải dùng static:
    - Các đường truyền có băng thông thấp.
    - Người quản trị mạng cần kiểm soát các kết nối.
    - Kết nối dùng định tuyến tĩnh là dự phòng cho đường kết nối dùng các giao thức động.
    - Chỉ có một đường duy nhất đi ra mạng bên ngoài. Tình huống này gọi là stub network.
    - Router có rất ít tài nguyên và không thể chạy một giao thức định tuyến động.
    - Người quản trị mạng cần kiểm soát bảng định tuyến và cho phép các giao thức định tuyến classful và classless.

    Dùng floating Static Routes

    Cơ chế dùng floating static route là một cơ chế khác để đưa thông tin vào bảng định tuyến. Giải pháp này khắc phục một số giới hạn trong thiết kế mạng. Một floating static route cho phép một đường đi dự phòng nằm chờ cho đến khi nào tuyến đường chính bị chết. Sau đó đường dự phòng sẽ được kích hoạt. Khi đường chính được sửa chữa, đường backup sẽ lui về chế độ dự phòng. Một ví dụ là một đường quay số sẽ làm đường backup cho đường frame-relay .

    Định tuyến theo yêu cầu (On Demand Routing)

    Tất cả các vấn đề định tuyến đều quan tâm đến vấn đề phí tổn quản lý. Trong trường hợp các routing update, dùng định tuyến tĩnh thì có chi phí quản trị cao, còn dùng định tuyến động thì tiêu tốn tài nguyên. Thông thường, việc chọn lựa khi nào thì dùng định tuyến tĩnh, khi nào dùng định tuyến động là một quyết định dễ dàng. Định tuyến tĩnh thường được dùng để chia sẽ thông tin định tuyến giữa classful và classless hoặc để định nghĩa một tuyến đường mặc định default route. Tuy nhiên trong một vài dạng mạng có sơ đồ phân bố lớn, định tuyến tĩnh hay động đều không phù hợp. Trong một hệ thống mạng như vậy, các kết nối thường có băng thông thấp và rất ít thông tin cần gửi trên các kết nối này. Trong tình huống này, có vẻ như định tuyến tĩnh và default-route là các giải pháp phù hợp. Tuy nhiên nếu có rất nhiều site ở xa trong mô hình hub-and-spoke, giải pháp này có thể trở nên không thể quản lý được. Trong giải pháp dùng ODR, tất cả các spoke router có thể có cấu hình giống nhau, mặc dù các địa chỉ IP phải là duy nhất cho từng router.

    ODR dùng CDP để gửi các địa chỉ mạng của các mạng kết nối trực tiếp từ spokes hoặc từ stub về hub router. Hub router sẽ gửi các địa chỉ interface của các kết nối chung như là một default route về stub router. ODR có thuận lợi là chỉ gửi các thông tin tối thiểu, chẳng hạn như phần prefix và phần mask, mặc định là mỗi 60 giây. Thông tin này sẽ được cập nhật vào bảng định tuyến của hub router và có thể được redistribute vào các giao thức định tuyến. Bởi vì giá trị netmask được gửi trong cập nhật, VLSM có thể được dùng.

    [​IMG]

    Trong hình vẽ trên, router A có đầy đủ thông tin về tất cả các mạng kết nối đến từng spoke. Các thiết bị còn lại trong AS chưa được đặt trong bảng định tuyến của router A nhằm đơn giản hóa cấu hình. Tất cả các spoke router, tượng trưng ở đây là routerB, sẽ gửi một default route đến phần còn lại của hệ thống mạng. Route mặc định 0.0.0.0 với giá trị next hop là địa chỉ IP của cổng kết nối về A. Router B sẽ có hai mạng kết nối trực tiếp tới nó. Một mạng là default net 0.0.0.0 và giá trị next hop là địa chỉ mạng mặc định, là địa chỉ của routerA.

    Khi cấu hình ODR, cần phải nhớ các điểm quan trọng sau:
    - Không có giao thức định tuyến nào cấu hình trên stub router. IP routing được bật lên ON ở chế độ mặc định. Cho phép sử dụng default route
    - Bất kỳ một địa chỉ secondary nào được cấu hình trên stub router sẽ không được truyền bởi CDP về hub router
    - ODR phải được cấu hình trên hub router
    - Mặc dù CDP là cho phép ở chế độ mặc định trên tất các các interface, một vài cổng giao tiếp WAN chẳng hạn như ATM đòi hỏi phải cấu hình CDP bằng lệnh cdp enable.
    - CDP dùng cơ chế multicast, vì vậy với những cơ chế WAN yêu cầu phát biểu mapping (ví dụ như trong frame-relay), hãy dùng từ khóa broadcast để đảm bảo rằng các CDP là được truyền.
    - Có thể hiệu chỉnh CDP timers để gửi các cập nhật thường xuyên hơn chu kỳ mặc định 60s.

    Chi tiết xem tại: Phân biệt các giao thức và các nguyên lý định tuyến cơ bản
     

trang này